Nếu người Việt thường nói tiếng Anh thiếu âm cuối, lúng túng với trọng âm thì người Nhật lại gặp khó khăn trong phân biệt cặp âm /r/ – /l/ và hay dùng sai mạo từ.
Một ngoại ngữ khó hay dễ mang tính tương đối, phụ thuộc vào năng lực tiếp thu và đặc trưng về từ vựng, ngữ pháp, cách phát âm trong tiếng mẹ đẻ của người học. Nếu cho rằng mình gặp quá nhiều khó khăn khi học tiếng Anh, bạn có thể suy nghĩ lại khi tìm hiểu xem người Nhật gặp nhiều vất vả như thế nào để làm quen với ngôn ngữ quốc tế này.
Tiếng Nhật sử dụng hệ thống chữ tượng hình, chỉ có 5 nguyên âm nên khi tiếp xúc với tiếng Anh – một ngôn ngữ sử dụng bảng chữ cái Latin với nhiều nguyên âm đơn và kép phức tạp, người Nhật mắc phải nhiều lỗi sai mang tính hệ thống. Dưới đây là những thử thách mà người dân xứ sở anh đào phải vượt qua nếu muốn học tiếng Anh.
Phân biệt cặp âm “r”- “l”
Trong tiếng Nhật, âm “l” không tồn tại còn “r” có cách phát âm khác với âm /r/ của tiếng Anh. Vì vậy, người học ở đây khó nhận thấy sự khác nhau của cặp âm này và nói lẫn lộn. Chính vì vậy, họ có thể viết “I rike red” trong khi “like” mới là động từ đúng của câu. Điều này cũng xảy ra trong tiếng Hàn Quốc, xuất hiện nhiều đến mức từ điển Urban Dictionary định nghĩa “rike” là “Asians way of saying like since they can’t pronounce the letter ‘L'” (Cách những người châu Á nói vì họ không thể phát âm chữ cái “l”).
Hơn thế, người Nhật còn gặp bất lợi ở chỗ bảng chữ cái katakana chuyên dùng cho viết từ mượn (trừ những từ gốc Hán và một số ngôn ngữ tượng hình khác) không có âm “l” và “v”. Điều này đồng nghĩa với việc các chữ cái “l” được chuyển thành “r” và “v” được viết thành “b” trong khi “th” chuyển thành “s” hoặc “z”. Những từ tiếng Nhật được mượn từ tiếng Anh bị đọc biến âm đi và khiến nhiều người sử dụng luôn cách đọc, viết ấy khi cần sử dụng tiếng Anh đích thực.
Học thuộc công thức của phụ âm
Ngôn ngữ này có một quy tắc, các phụ âm không đứng một mình mà luôn có nguyên âm đi kèm, ngoại trừ phụ âm “n”. Vì thế, “hot” trở thành “hotto”, “web” thành “webu” hay “internet” thành “intanetto”. Điều này tạo thành một thói quen cho người Nhật – luôn thêm nguyên âm sau những từ tiếng Anh kết thúc bằng phụ âm và làm mất đi những âm cuối (ending sound) đặc trưng. Trong khi đó, một lượng lớn từ vựng trong tiếng Anh kết thúc bằng phụ âm – điều khiến tỷ lệ mắc lỗi của người Nhật khi nói tiếng Anh tăng lên nhiều.
Quên đi những từ vựng Nhật có nguồn gốc tiếng Anh
Nhiều từ mượn được dùng tại Nhật Bản, đặc biệt các từ vựng chỉ các loại đồ ăn xuất phát từ nước ngoài và được viết bằng chữ katakana. Du khách nước ngoài không biết tiếng Nhật có thể nhận ra nhiều món ăn trong thực đơn được viết bằng chữ katakana như “hambaga” (hamburger) and “koora” (cola). Điều này khiến nhiều người Nhật mặc định đấy là cách viết của tiếng Anh và nói theo kiểu tiếng Nhật.
Tuy nhiên, nhiều từ vựng còn bị biến âm phức tạp hơn dẫn đến việc dùng sai từ vựng. Món khoai tây chiên trong tiếng Anh là “potato chip” còn tiếng Nhật lại là “fried chip”. Vì vây, người Nhật có thể viết câu “I ate fried potato” và khiến người khác cảm thấy bối rối. Một ví dụ khác cho thấy tiếng Nhật đã cải biến từ vựng gốc Anh nhiều đến mức từ “personal computer” (máy tính cá nhân) trở thành “pasokon”. Nhiều người đã phải vất vả để phân biệt được từ vựng katakana và tiếng Anh không phải là một.
Học lại cấu trúc câu
Tiếng Nhật là ngôn ngữ có cấu trúc câu làm nổi bật chủ đề, thay vì nói “I am scared”, ngôn ngữ này lại sử dụng câu kiểu như “As for me, (it is) scary” (Watashi wa kowai desu) để nhấn mạnh chủ thể. Phần đại từ đóng vai trò chủ ngữ (he, she, I, you) cũng có thể được lược bỏ nếu không cần thiết, quá hiển nhiên. Chẳng hạn, “Hon o yonda” được dịch sang tiếng Anh “read book”(đọc sách) là một câu đầy đủ đúng ngữ pháp trong tiếng Nhật. Kiểu câu này cũng được sử dụng trong tiếng Hàn Quốc, Trung Quốc và một số ngôn ngữ châu Á khác. Mỗi khi cần chia sẻ “I had a good time”, người Nhật lại nói “For me, it was enjoy”.
Làm quen với các mạo từ
Tiếng Nhật không cần mạo từ (a, an, the), không chia danh từ số nhiều. Vì vậy, nhiều người học tiếng Anh cảm thấy khó khăn trong việc hiểu rõ chức năng sử dụng của mạo từ trong tiếng Anh và tùy tiện thêm “a”, “an”, “the” với hi vọng đúng ngữ pháp.
Y Vân tổng hợp